Sáng tác Chàng Mèo Mang Mũ

Những lời kể của Geisel rất khác nhau về việc lên ý tưởng The Cat in the Hat. Câu chuyện mà Geisel hay dùng nhất là ông quá chán danh sách từ vựng do William Spaulding đưa cho nên cuối cùng đã quyết định rà quét cả danh sách và sáng tác nội dung từ hai từ đầu tiên có vần điệu mà ông tìm được, đó là cat (mèo) và hat (mũ).[9] Gần cuối đời, Geisel nói với những người viết tiểu sử cho mình, Judith và Neil Morgan, rằng phần đầu câu chuyện được hình thành cùng với Spaulding khi trong thang máy tại tòa văn phòng Houghton Mifflin ở Boston.[11] Đó là chiếc thang máy cũ kỹ, rung lắc được vận hành bởi một "phụ nữ nhỏ nhắn cúi đầu đeo 'nửa găng tay da và cười bí hiểm'". Anita Silvey kể lại tương tự, mô tả người phụ nữ là "một phụ nữ Mỹ gốc Phi rất thanh lịch, nhỏ nhắn tên là Annie Williams". Geisel nói với Silvey rằng, khi vẽ phác thảo The Cat in the Hat, ông nghĩ đến Williams và vẽ ra nhân vật đeo găng tay trắng của Williams với "nụ cười ranh mãnh, thậm chí là xảo quyệt".[12]

Geisel nói một trong những câu chuyện của mình trước The Cat in the Hat liên quan đến dự định leo lên đỉnh Everest

Geisel kể lại hai chuyện trái ngược nhau, hư cấu về chuyện sáng tác trong hai bài báo, "How Orlo Got His Book"[lower-alpha 3] trên New York Times Book Review và "My Hassle with First Grade Language"[lower-alpha 4] trên Chicago Tribune, đều xuất bản vào ngày 17 tháng 11 năm 1957.[9] Trong "My Hassle with First Grade Language", ông viết về đề xuất của mình với một "nhà xuất bản sách giáo khoa có tiếng" để viết một cuốn sách cho trẻ nhỏ về việc "leo lên đỉnh Everest vào lúc 60 độ âm" (scaling the peaks of Everest at 60 degrees below). Nhà xuất bản cũng hứng thú nhưng nói rằng "anh không thể dùng từ scaling. Anh không thể dùng từ peaks. Anh không thể dùng Everest. Anh không thể dùng 60. Anh không thể sử dụng degrees. Anh không thể..."[13] Geisel kể lại chuyện tương tự với Robert Cahn trong bài viết trên tờ The Saturday Evening Post ngày 6 tháng 7 năm 1957. Trong "My Hassle With First Grade Language", ông cũng kể về "ba tuần đau đớn tột cùng", trong đó ông viết chuyện về King Cat (Mèo Vua) và Queen Cat (Mèo Hoàng hậu).[14] Tuy nhiên, "queen" không có mặt trong danh sách từ vựng cũng như cậu cháu trai Norval mới học lớp một không biết từ này. Do đó, Geisel quay ra viết lại nhưng vẫn chỉ nghĩ đến các từ bắt đầu bằng chữ "q" hoàn toàn không có danh sách. Rồi ông cũng thích thú giống như vậy với chữ cái "z", cũng lại không có trong danh sách. Cuối cùng khi đã hoàn thành cuốn sách và đưa cho Norval xem, cậu đã học xong lớp một và đang học vi tích phân. Philip Nel phân tích bài báo và viết rằng Norval là do Geisel tưởng tượng ra. Cháu gái của Geisel là Peggy Owens có một con trai nhưng cậu bé chỉ mới một tuổi khi bài báo được đăng.[15]

Trong "How Orlo Got His Book", ông nói về Orlo, một đứa trẻ hư cấu, theo đúng hình mẫu, không thích đọc do không có lựa chọn phong phú về tài liệu học đọc đơn giản.[16] Để giúp Orlo khỏi nỗi buồn đó, Geisel quyết định viết một cuốn sách cho những em bé như Orlo, nhưng ông nhận ra việc này "không khác gì việc... lạc lối trong đường hầm tình ái với một phù thủy". Ông thử viết một câu chuyện với tựa đề "The Queen Zebra" (Nữ hoàng ngựa vằn) nhưng phát hiện cả hai từ đều không nằm trong danh sách. Trên thực tế, giống như Geisel mô tả trong "My Hassle with First Grade Language", trong danh sách hoàn toàn không có chữ cái "q" và "z". Sau đó, ông thử viết chuyện về chim (bird) nhưng không dùng từ bird bởi cũng không có trong danh sách. Thay vào đó, ông quyết định gọi nó là "wing thing" (thứ có cánh) nhưng lại điên đầu vì "không thể có legs (chân), beaks (mỏ) hay tail (đuôi). Cũng không có chân left (trái) hay right (phải).[17] Về hướng tiếp cận để sáng tác The Cat in the Hat, ông viết "Phương pháp tôi đã sử dụng giống như cách các bạn dùng khi ngồi xuống làm bánh mà không có bột."[lower-alpha 5][17]

Thời gian hoàn tất tác phẩm được Geisel đưa ra khác nhau chênh lệch từ chín đến 18 tháng.[18] Theo Donald Pease, Geisel chủ yếu làm một mình, khác với các tác phẩm trước đó có sự tham gia nhiều hơn của vợ ông là Helen.[19] Việc này đánh dấu chiều hướng chung trong công việc cũng như cuộc sống Geisel. Sau này Robert L. Bernstein nói về khoảng thời gian đó "Tôi càng quan sát anh, anh càng thích ở trong căn phòng đó và tự mình sáng tạo ra tất cả." Pease chỉ ra sự hồi phục của Helen sau hội chứng Guillain-Barré (chẩn đoán mắc phải vào năm 1954) đánh dấu sự thay đổi này.[20]